Giỏ hàng của bạn trống!
Lai Châu - vùng đầu nguồn rộng lớn
Lai Châu cách thủ đô Hà Nội 431km về phía Tây Bắc Việt Nam; có đường biên giới dài hơn 265 km với Trung Quốc, đồng thời là vùng đầu nguồn rộng lớn và phòng hộ đặc biệt xung yếu của sông Đà - nơi sinh sống của rất nhiều đồng bào dân tộc - nên Lai Châu có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia.
Lai Châu - vùng đầu nguồn rộng lớn
Lai Châu ở đâu?
Tỉnh Lai Châu cách thủ đô Hà Nội 431km về phía Tây Bắc Việt Nam; có đường biên giới dài 265,165km với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, về phía Bắc. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 9.068,78 km².
Lai Châu có cửa khẩu quốc gia Ma Lù Thàng và nhiều lối mở trên tuyến biên giới trực tiếp giao lưu với vùng lục địa rộng lớn phía Tây Nam của Trung Quốc; được gắn với khu vực tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh bằng các tuyến quốc lộ 4D, 70, 32 và đường thủy sông Đà, tạo tiềm năng phát triển dịch vụ - thương mại, xuất nhập khẩu và du lịch.
Lai Châu cũng là vùng đầu nguồn rộng lớn và phòng hộ đặc biệt xung yếu của sông Đà - địa bàn sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số - nên Lai Châu có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia mà trực tiếp là các công trình thủy điện lớn trên sông Đà và vùng châu thổ sông Hồng.

Theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 được thông qua ngày 26/11/2003 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI, tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập trên cơ sở tách một số huyện của tỉnh Lai Châu (cũ) và sáp nhập thêm huyện Than Uyên từ tỉnh Lào Cai. Tỉnh lỵ mới đóng tại thị xã Tam Đường (trước đó gọi là thị trấn Phong Thổ), lấy tên mới là thị xã Lai Châu (nay là thành phố Lai Châu).
Theo Nghị quyết số 1670/NQ-UBTVQH15 ngày 16/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Lai Châu năm 2025, có hiệu lực từ ngày 16/6/2025, tỉnh Lai Châu có 38 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 36 xã và 02 phường; trong đó có 34 xã và 02 phường hình thành sau sắp xếp và 02 xã không thực hiện sắp xếp là xã Mù Cả, xã Tà Tổng. Trước khi sắp xếp, Lai Châu có 106 đơn vị hành chính cấp xã (94 xã, 5 phường và 7 thị trấn).
Hình: Thông tấn xã Việt Nam
Cộng đồng dân cư trong tỉnh Lai Châu bao gồm 20 dân tộc, trong đó, chỉ có 13 dân tộc cư trú thành cộng đồng, gồm: Thái, Giáy, Lào, Lự, Mảng, Kháng, Khơ mú, Mông, Dao, Hà Nhì, La Hủ, Cống và Si La với truyền thống, bản sắc văn hóa riêng và cùng góp phần làm phong phú văn hóa các dân tộc của tỉnh Lai Châu. Các dân tộc khác như Tày, Nùng, Hoa, Mường,... tuy có trong danh mục các dân tộc tỉnh Lai Châu, nhưng sống xen kẽ, không cư trú thành cộng đồng.
Khí hậu ở Lai Châu thế nào?
Tỉnh Lai Châu có đặc điểm khí hậu mang tính chất gió mùa chí tuyến, khí hậu điển hình của vùng nhiệt đới núi cao vùng Tây Bắc có ngày nóng, đêm lạnh, ít chịu ảnh hưởng của bão.
Khí hậu trong năm chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 có nhiệt độ và độ ẩm cao; mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, khí hậu lạnh, độ ẩm và lượng mưa thấp (tháng 4 và tháng 10 là thời gian chuyển tiếp giữa hai mùa).
Nhiệt độ không khí bình quân năm của Lai Châu là 22,5°C với tổng nhiệt năm 8.400°C nhưng có sự phân hóa khá rõ rệt giữa các vùng của tỉnh: Vùng thấp ở độ cao dưới 300m có nền nhiệt tương đối cao (nhiệt độ trung bình năm khoảng 23°C với tổng nhiệt năm 8.400°C); vùng có độ cao trung bình từ 300-800m, nhiệt độ ở đây đã giảm khoảng 2-3°C; vùng có độ cao trên 1.500m, nhiệt độ không khí trung bình năm vào khoảng 16°C, tương ứng với tổng nhiệt năm là 4.300°C.
Lượng mưa bình quân hằng năm dao động từ 1.600mm đến trên 3.000mm, trung bình từ 2.500-2.700mm. Lượng mưa phân bổ không đều theo thời gian, mưa lớn tập trung vào tháng 6, 7 và 8 chiếm đến 80% lượng mưa cả năm, và lượng mưa cũng không đều giữa các khu vực của tỉnh.
Lai Châu là khu vực chịu ảnh hưởng chính của gió Tây và Đông Nam, ít chịu ảnh hưởng của bão và gió mùa Đông Bắc. Ở các thung lũng, tốc độ gió giảm đáng kể so với các khu vực cao, ít bị chắn bởi địa hình.
Lai Châu có gì hấp dẫn?
Đèo Ô Quy Hồ - “vua đèo vùng Tây Bắc”
Đèo Ô Quy Hồ hoặc đèo Mây, còn có tên gọi là đèo Hoàng Liên, do đèo vượt qua dãy núi Hoàng Liên Sơn, nằm trên đỉnh núi quanh năm mây phủ ở độ cao gần 2.000m đã thu hút rất nhiều khách du lịch Lai Châu đến khám phá, trải nghiệm. Tương truyền ở vùng núi này, trước hay hiện diện một loài chim có tiếng kêu da diết, gắn với huyền thoại về câu chuyện tình yêu không thành của một đôi trai gái. Từ đó, theo thời gian chính tiếng kêu “ô quy hồ” của loài chim này đã được dùng để đặt thành tên cho con đèo.
Đèo Ô Quy Hồ có cung đường đèo dài ngoằn ngoèo trên quốc lộ 4D, trong đó 2/3 quãng đường thuộc địa phận huyện Tam Đường, Lai Châu, 1/3 còn lại nằm ở phía thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Đây có lẽ là một con đèo giữ kỷ lục về độ dài tại vùng núi Tây Bắc Việt Nam, với chiều dài lên tới gần 50km, dài hơn cả đèo Pha Đin (dài 32km, nằm ở ranh giới tỉnh Sơn La và Điện Biên) hay đèo Khau Phạ (dài gần 40km, trước thuộc tỉnh Yên Bái, nay thuộc tỉnh Lào Cai). Độ cao, sự hiểm trở và chiều dài của Ô Quy Hồ khiến đèo được mệnh danh một cách không chính thống là “vua đèo vùng Tây Bắc”.

Độ cao của dãy núi Hoàng Liên Sơn cũng khiến cho khách du lịch Lai Châu cảm nhận khí hậu hai nửa của đèo được phân định tại Cổng Trời trở nên khác biệt. Mùa đông, trong khi bên phía Tam Đường trời vẫn ấm áp thì bên Sa Pa có những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt, cả ngày sương mù bao phủ, tầm nhìn không quá 2m, và núi rừng chìm ngập trong mây. Vào mùa hè, nếu bên đèo Sa Pa khí hậu mát mẻ trong lành thì bên đèo Tam Đường là những cơn nóng khô hanh sẽ thiêu đốt. Những năm trời lạnh, đỉnh đèo Ô Quy Hồ có thể bị phủ kín bởi băng tuyết.
Ngày 29-6-2015, thác Cầu Mây, Cổng Trời thuộc khu vực đèo Hoàng Liên Sơn xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu được công nhận là Danh lam thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định số 2248/QĐ-BVHTTDL.
Danh lam thắng cảnh Pusamcap
Quần thể danh lam thắng cảnh Pusamcap nằm trên bản Gia Khâu I, xã Nậm Loỏng - thuộc địa bàn xã Sùng Phài theo Nghị quyết số 866/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 ngày 10/01/2020 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Lai Châu; thuộc địa bàn phường Đoàn Kết theo Nghị quyết số 1670/NQ-UBTVQH15 ngày 16/6/2025 - của tỉnh Lai Châu, là dãy núi đất và đá vôi được mệnh danh là “Tây Bắc đệ nhất động”, có sườn núi thoai thoải từ 20-300m về hướng Nam và dốc đứng, chia cắt về hướng Bắc.
Chính kiến tạo địa chất này đã tạo nên ở phía bắc dãy núi cả một hệ thống hàng chục hang động và suối ngầm kéo dài từ xã Nùng Nàng (nay là phường Tân Phong) qua Nậm Loỏng (nay là phường Đoàn Kết) đến xã Lản Nhì Thàng (nay là phường Đoàn Kết).

Khách du lịch Lai Châu sẽ thấy hang động trong quần thể Pusamcap ở những độ cao khác nhau. Các hang động có diện tích khoảng 500m2-15.000m2, đặc biệt một số hang có hệ thống sông suối ngầm. Tại quần thể Pusamcap có hệ thống hang động gồm 4 động: Thiên Môn, Thiên Đường, Hang Nước và Động Đài Sen, trong đó, có rất nhiều nhũ đá đẹp với hình thù khác nhau... đan xen giữa các hang động là khu rừng nguyên sinh với nhiều thảm thực vật phong phú, đa dạng.
Năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng quần thể danh lam thắng cảnh Pusamcap là Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia.
Động Tiên Sơn
Động Tiên Sơn (còn có những tên gọi khác: động Đán Đón, Pờ Ngài Tủng, động Đá Trắng, động Bình Lư) nằm kề quốc lộ 4D, thuộc địa phận xã Bình Lư.
Động Tiên Sơn với các hang động nằm trong quần thể danh thắng gắn liền với truyền thuyết về 99 ngọn núi - 99 hồ nước của đồng bào dân tộc Lai Châu đã trở thành nét đẹp riêng mà ít nơi nào có được.
Truyền thuyết về động Tiên Sơn đã được dân gian lưu truyền qua nhiều thế hệ: 99 ngọn núi chính là biểu tượng của 99 chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, còn 99 hồ nước trong xanh chính là 99 người con gái cần cù, xinh đẹp. Những ngọn núi và hồ nước nối tiếp nhau tạo nên bức tường thành ôm giữ một vùng đất đai trù phú, phì nhiêu. Cảnh đẹp và con người nơi đây trở thành nguồn cảm hứng cho ra đời những lời ca tuyệt vời “chín mươi chín ngọn núi chàng trai, chín mươi chín hồ xanh cô gái”...
Động Tiên Sơn có 49 cung nối tiếp nhau chạy dài thông qua hai sườn núi, càng vào sâu bên trong, diện tích các cung càng lớn. Trong động có nhiều thạch nhũ muôn hình muôn vẻ, màu sắc huyền ảo. Dưới lòng động có dòng suối trong vắt chảy qua, luồn lách qua các cung, như: Cung công danh, Lạc Long Quân, Mẫu Âu Cơ, Bà Chúa Kho, giải oan, xin con. Tiên Sơn là hang động thiên tạo đẹp nổi tiếng trong vùng còn giữ được vẻ hoang sơ.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp nơi đây còn là nơi cất giấu lương thực và là căn cứ địa của phong trào cách mạng.
Năm 1996, Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 1460/VH-QĐ, ngày 28-6-1996, công nhận động Tiên Sơn là Di tích lịch sử văn hóa - Danh lam thắng cảnh cấp quốc Gia.
Thác Tác Tình
Thác Tác Tình thuộc xã Bình Lư, tỉnh Lai Châu. Thác nằm giữa dãy núi Sơn Đào, bắt nguồn từ dãy Hoàng Liên Sơn.
Thác Tác Tình cao chừng 120m đổ xuống theo hướng thẳng đứng, chân thác rộng chừng 40m, phía dưới chân thác là một hồ nước trong xanh rộng khoảng 200m2 như một tấm gương giữa rừng núi trùng điệp. Những đôi trai gái yêu nhau thường đến đây để cầu mong tương lai hạnh phúc của họ được vững bền. Thác gắn liền với huyền thoại về tình yêu thủy chung, mãnh liệt của đôi trai gái người Dao.

Thác Tác Tình thu hút khách du lịch Lai Châu vì đây là một kiệt tác của tự nhiên, với không gian trù phú, phong cảnh hữu tình; nó không chảy theo một dòng mà ngắt nhịp, thể hiện sự kỳ vĩ huyền ảo của không gian.
Với giá trị thẩm mỹ và tiềm năng du lịch, ngày 31/12/2008, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lai Châu có Quyết định số 2352/QĐ-UBND công nhận xếp hạng thác Tác Tình là Di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh.
Hang động Gia Khâu
Hệ thống hang động Gia Khâu nằm trên một ngọn núi thấp thuộc bản Gia Khâu, phường Đoàn Kết (trước là xã Nậm Loỏng), tỉnh Lai Châu, là một hệ thống bao gồm ba hang động, được chia thành ba cấp ở ba hướng, nằm thu gọn trong một thung lũng, được người dân nơi đây phát hiện ra trong khi làm nương rẫy và được gọi tên là hang Gia Khâu.
Trước kia, người dân trong bản thường gọi là “Kho Chua Ploong Trsây” (Hang trên đồi lá dong) vì hang nằm trên đồi mọc toàn cây dong.
Hệ thống hang động Gia Khâu gồm có ba cửa hang, cửa hang trên cùng (cửa 1) vòm cửa rộng 2,8m, cao 1,8m, trước cửa có hình tượng một ông Phật đang ngồi thiền xung quanh lô nhô những nhũ đá hình như một toà sen, phía trên là một bức rèm nhũ phủ kín làm tăng thêm vẻ huyền bí của di tích. Chiều dài vòm cửa của hang 5m vào trong là một cửa hang nhỏ, đây là cửa dẫn xuống hang, rộng 1,3m, cao 1,25m, từ đây có thể nhìn xuống trung tâm của hang.

Hệ thống hang động Gia Khâu được Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu công nhận xếp hạng di tích Danh lam thắng cảnh cấp tỉnh theo Quyết định số 1571/QĐ-UBND, ngày 6-10-2009.
Danh thắng Núi Đá Ô
Danh thắng Núi Đá Ô nằm trong địa phận bản Bành Phán, xã Sìn Hồ (trước đây là xã Tả Phìn).
Khu chính danh thắng là một khối đá lớn có hình dáng như một chiếc ô, đây là loại đá phong hoá từ đá bazan, phần phía bắc khối đá dựa vào 2 cây chò cổ thụ. Khối đá màu đen này có chiều cao 3,7m được chia làm ba phần. Phần chóp ô (phần trên cùng) có chiều cao từ 70-80cm, đường kính 5,2m có thể che mưa, che nắng cho nhiều người. Tảng đá chop ô có màu xanh rêu với vô số đường nét và hoa văn rất độc đáo. Phần thân (phần ở giữa) có đường kính 2,5m gồm những phiến đá màu nâu đen xếp chồng lên nhau tạo nên những hình thù kỳ lạ. Phần chân (phần dưới đất) có chiều cao khoảng 55cm, đường kính 5,4m và được bao bọc bởi rễ của hai cây chò cổ thụ. Phần phía Nam có một phiến đá bằng phẳng hình chữ nhật có kích thước 40-55cm2. Phiến đá này là nơi phản ánh đời sống văn hóa tâm linh của bà con dân bản, nơi mà người dân thường thắp hương cầu nguyện và đặt các lễ vật dâng cúng.
Núi Đá Ô được gắn với sự tích của người Dao Khâu, kể về ông Tiên xuống hạ giới du ngoạn để quên cái ô, qua thời gian cái ô hóa thành đá. Ngày xa xưa, có một ông Tiên xuống trần gian du ngoạn. Từ trên trời ông bay xuống đỉnh núi Sang Ta Ngai là đỉnh núi cao nhất ở vùng cao nguyên Sìn Hồ. Đứng trên đỉnh núi ông nhìn được rất xa, quan sát hết lượt, ông thấy ở phía Nam có một bãi bằng. Ông quyết định tới đó để tham quan nhưng chưa biết đi đường nào vì bốn phía đều là núi non trùng điệp, vách đá cheo leo. Với sức mạnh phi thường ông bẻ vách đá trước mặt làm đôi tạo ra khoảng trống để đi qua đó là cánh cổng vào bản Sang Ta Ngai bây giờ (tiếng Dao gọi là Phìn Me Bánh). Ra khỏi vách đá, ông Tiên tiếp tục đi về phía Tây Nam qua núi Ngọc (Chu Pu Chong) rồi qua khe sâu (Tầm Đố) về tới bãi bằng đó chính là bản Tả Phìn, dân bản được biết có ông Tiên (Phin Cha Miền) đến thăm thì rất mừng liền tổ chức mở tiệc và liên hoan múa hát để chào đón ông Tiên. Cuộc vui kéo dài 7 ngày 7 đêm. Đến ngày thứ 7, ông Tiên sực nhớ ra phải trở về tiên giới, vội vàng chào bà con rồi bay lên trời. Nơi ông Tiên giậm chân lấy đà để bay lên, đất lún suống tạo thành hố sâu, sau này thành cái ao gọi là Gàng Manh. Do vội vã nên ông Tiên đã bỏ quên nhiều thứ. Trước khi vào Tả Phìn nghỉ chân trên đỉnh núi ngọc, ông để rơi viên ngọc. Khi rời bản Tả Phìn, ông Tiên còn bỏ quên cái ô đang cắm ở giữa bản để che mưa, nắng lúc xem hội, lâu ngày cái ô hóa đá.

Từ đó, người dân Tả Phìn coi ô đá là nơi linh thiêng và trở thành nơi thờ cúng. Người Dao Khâu và người Mông đen ở xã Tả Phìn và các xã lân cận hàng năm có tục lệ đến Núi Đá Ô thắp hương và cầu mong cho gia đình, con cái được mạnh khoẻ, người ốm sớm bình phục. Theo các vị cao niên trong bản, tục lệ này đã có từ rất lâu, lưu truyền từ đời này qua đời khác.
Di tích Núi Đá Ô được công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh theo Quyết định số 2058/QĐ-UBND ngày 25-10-2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu.
Đền thờ vua Lê Thái Tổ
Khách du lịch Lai Châu sẽ muốn đến thăm quần thể đền thờ vua Lê Thái Tổ và bia vua Lê Thái Tổ nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu 110km về phía Tây Nam, thuộc địa phận hành chính của xã Lê Lợi (trước đây thuộc xã Lê Lợi và xã Pú Đao, huyện Nậm Nhùn), tỉnh Lai Châu.
Đền thờ được dựng lên để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, người đã có công dẹp loạn vùng Tây Bắc. Ngôi đền tọa lạc trên vị trí đắc địa, cao ráo, có thể phóng tầm mắt 4 phía. Quần thể đền thờ Vua Lê còn có một di tích quý báu đó là di tích bia Lê Lợi. Tháng Chạp năm Tân Hợi (1431), vua Lê Thái Tổ đã cho tạc khắc vào vách đá Pú Huổi Chỏ bên bờ bắc sông Đà để lưu lại cho muôn đời sau, sử cũ gọi là “Bia cổ hoài lai”.
Văn bia ghi lại sự kiện lịch sử vua Lê Thái Tổ thân chinh chỉ huy các đạo quân dẹp phản loạn ở vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Đó là sự kiện năm 1431, tù trưởng Đèo Cát Hãn làm phản, liên kết với Kha Đốn (còn gọi là Kha Lại) - một bầy tôi phản nghịch của Ai Lao (nước Lào) quấy nhiễu Nhân dân nơi biên ải, đánh chiếm vùng đất Mường Muỗi (là vùng Thuận Châu - Sơn La ngày nay).
Do hành động phản nghịch của Đèo Cát Hãn, vua Lê Thái Tổ đã phái Quốc vương Tư Tề và quan Tư khấu Lê Sát đem quân tiến đánh. Sau đó, vua Lê Thái Tổ thân chinh đem quân lên châu Phục Lễ (châu Ninh Viễn). Đại quân của triều đình tiến theo đường từ sông Hồng, rồi ngược sông Đà, bằng đường thủy và đường bộ, đánh tan quân phản nghịch Đèo Cát Hãn. Khi quân của nhà vua tiến đến sào huyệt của Đèo Cát Hãn, Kha Lại và Đèo Cát Hãn bỏ trốn, sau đó Nhân dân bắt được Kha Lại và giết chết.
Tháng Chạp năm Tân Hợi - 1431, sau khi bình định vùng Tây Bắc, trên đường quay trở về qua địa phận xã Lê Lợi, để ghi nhớ sự kiện trọng đại này đồng thời răn dạy các tù trưởng cai quản nơi biên cương của Tổ quốc, vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách đá bài văn ghi nhớ sự kiện này:
“Bọn giặc cuồng sao dám tránh sự trừng phạt,
Dân biên thùy từ lâu mong ta đến cứu sống
Kẻ bầy tôi làm phản từ xưa vẫn có
Đất đai hiểm trở từ nay không còn
Tiếng gió thổi hạc kêu làm cho quân giặc run sợ,
Sông núi từ nay nhập vào bản đồ
Đề thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ phía Tây nước Việt ta".
Ngày lành tháng Chạp năm Tân Hợi (1431)
Ngọc Hoa động chủ đề.
Tấm bia khắc bài minh văn của vua Lê Thái Tổ còn lại cho đến ngày nay là một di sản văn hóa cực kỳ quý báu. Tấm bia đá hay đúng hơn là một trang vàng lịch sử chống giặc ngoại xâm cùng những tên tù trưởng tham lam, câu kết với ngoại bang để chống lại Nhà nước phong kiến Việt Nam lúc đó.

Năm 2005, Nhà máy thủy điện Sơn La khởi công, để tránh bị ngập nước, phần bút tích văn bia của vua Lê Thái Tổ đã được di dời. Bút tích sau khi được khoan cắt ra thành một khối đá lớn có kích thước dài 2,62m, rộng 1,13m, cao 1,85m, trọng lượng trên 15 tấn. Năm 2012, bia Lê Lợi được di dời khỏi vách đá Pú Huổi Chỏ đến khuôn viên đền thờ vua Lê Thái Tổ cách vị trí cũ 500m.
Di tích Bia Lê Lợi thuộc xã Lê Lợi và xã Pú Đao, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định 10/VH-QĐ, ngày 02/9/1981, thuộc danh mục số 185 của Bộ Văn hóa về xếp hạng di tích cấp quốc gia Bia Lê Lợi.
Cuối 2016, Bia Lê Lợi chính thức được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2496/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Đầu năm 2017, Đền thờ vua Lê Lợi cũng được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 218/QĐ-BVHTTDL, ngày 23-01-2017.
Bia Lê Lợi là hiện vật gốc độc bản, hoàn toàn không trùng lặp với các văn bia đã được phát hiện, văn bia vừa mang giá trị to lớn về lịch sử nhưng cũng là một kiệt tác văn hóa của vị anh hùng tài hoa của dân tộc.
Đền thờ Nàng Han
Đền thờ Nàng Han nằm ở bản Tây An thuộc xã Phong Thổ (trước là xã Mường So) và bản Phai Cát, xã Khổng Lào, cũng là một điểm đến ưa thích của khách du lịch Lai Châu. Đây là một địa điểm thờ cúng nhân vật trong truyền thuyết được nhân dân gọi là Nàng Han (Nàng có nghĩa là con gái, Han có nghĩa là anh hùng).
Tương truyền, Nàng Han xuất thân trong một gia đình người Thái nghèo ở Chiềng Sa (nay là xã Phong Thổ - trước là xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu). Nàng đã cải trang thành nam giới, đứng lên kêu gọi thanh niên trai tráng các bản đoàn kết đánh giặc. Nàng đứng đầu cuộc khởi nghĩa của đồng bào 16 xứ Thái quật cường đánh bại giặc xâm lược phương Bắc. Sau khi dẫn đoàn quân thắng trận trở về, nàng tắm gội ở mó nước Tây An (xã Mường So) rồi bay lên trời. Từ đó, nhớ công ơn của nàng, bà con lập đền thờ và tổ chức lễ hội ngay ở mó nước nàng tắm.

Nàng Han không chỉ là nhân vật được thờ phụng của người dân ở xã Mường So hay địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng mà Nàng Han là nhân vật thờ phụng của tất cả đồng bào dân tộc Thái Trắng trên cả khu vực Tây Bắc. Nàng Han trong tâm linh 16 xứ Thái, xứ Mường ở Tây Bắc giống như Bà Trưng, Bà Triệu đối với người Kinh.
Ngày 25/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu ra Quyết định số 2057/QĐ-UBND công nhận Đền thờ Nàng Han là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.
Những lễ hội truyền thống
Lễ hội Nàng Han
Lễ hội Nàng Han được tổ chức vào ngày 15 tháng 2 Âm lịch hàng năm, tại bản Tây An, xã Phong Thổ, để tôn vinh và tri ân nữ anh hùng Nàng Han đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm của người Thái Trắng và mong cầu sự no ấm, cuộc sống an lành, người yên, vật thịnh, mùa màng tươi tốt cho bản làng.
Lễ hội Nàng Han gồm 6 bài tế lễ, do các thầy mo đảm nhiệm, gồm: Tùng song tơ, Phái lệ tơ, Thá ớc, Thá hu nơ, Then hầu phét, Quát bó héo. Ðặc biệt, trong lễ hội có tới 32 bài múa dân gian của người Thái.
Ðúng ngày chính hội, dân làng tập trung trước ngôi miếu thờ Nàng Han để xem hát múa. Các thầy mo cúng lễ ngay ngoài trời. Vật phẩm dâng lên Nàng Han gồm có hoa quả, gà xôi và những tờ giấy bạc của đồng bào Thái. Thầy mo cúng xong thì các cô gái trong đội múa với trang phục váy cóm thướt tha biểu diễn các bài dân ca truyền thống ca ngợi quê hương, tình yêu và công đức của vị nữ tướng anh hùng.
Phần hội khá sôi nổi và rầm rộ với các trò chơi dân gian phổ biến trong các ngày hội của đồng bào dân tộc như: Đẩy gậy, kéo co, tung còn... Ðặc biệt, trò chơi thi bắt cá dưới con suối thu hút đông đảo trai làng biểu diễn. Phần trình diễn ẩm thực của người Thái cũng rất hấp dẫn khách du lịch Lai Châu với những món ăn đặc sắc, như: xôi ba màu, cá nướng, rêu nướng ngay bên bờ suối đầu bản...
Hạn Khuống - Lễ hội ngày mùa
Lễ hội Hạn Khuống là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Thái, thường được tổ chức sau vụ thu hoạch vào tháng 11 hàng năm. Nam nữ thanh niên Thái cùng nhau vào rừng đốn vài cây rừng về dựng một sàn ở khu đất trống giữa bản, sàn có thể dựng bằng tre hoặc gỗ, sàn đó được gọi là Hạn Khuống, là nơi để nam nữ thanh niên Thái đến khắp (hát) đối đáp.
Trên sàn Hạn Khuống, nam thanh nữ tú được chuẩn bị các dụng cụ để hội tụ giao duyên; con gái Thái thì quay sợi, cán bông, dệt vải, thêu thùa bằng chỉ màu các loại, có bếp củi để đốt lửa. Dụng cụ cho trai Thái gồm có lạt xanh, lạt đỏ, lạt trắng để đan hom, đan giỏ, hoặc đan các con vật để tặng bạn gái, người mà trai Thái có ý tỏ tình trong đêm khắp (hát) đối giao duyên. Ống điếu và bó đóm bằng tre ngâm khô và thuốc lào. Ngoài ra, còn có một số vật dụng khác để đan chải, đan vợt xúc cá... và các loại nhạc cụ như khèn bè, pí pặp, pí thiu, sáo trúc, đàn tính...
Sàn Hạn Khuống dựng cao khoảng 1,2-1,5m, rộng chừng 0,6m và dài chừng 5m, xung quanh có lan can được trang trí hoa văn mang bản sắc dân tộc. Giữa sàn Hạn Khuống có cây nêu bằng tre to, dài để cả phần ngọn còn nguyên lá và trang trí các con giống đủ màu sắc gọi là “Lắc xáy chính”. Cây “Lắc xáy chính” này mang bóng dáng của cây vũ trụ. Bốn góc sàn Hạn Khuống có 4 cây nhỏ trang trí đẹp mắt gọi là “Lắc xáy” và sàn đều có cầu thang lên xuống, được gọi là “San bó Han Khuông” (Sàn hoa Hạn Khuống).
Chủ thể Hạn Khuống thường là những thiếu nữ Thái xinh đẹp được lựa chọn của bản mường, có đức - tài, hát đối ứng gọi là “Xao tỏn khuống”. Bốn cô gái ngồi ở bốn góc gọi là “Xao lắc xáy”. Khi bếp lửa trên sàn bắt đầu nhóm lên, ngọn lửa cháy rực sáng cả một góc bản mường cũng là lúc các cô chủ Hạn Khuống rút thang lên, quay guồng xa của mình kéo sợi giăng ngang lối lên - xuống sàn Hạn Khuống và cuộc thi tài bắt đầu.
Lúc này, các chàng trai Thái muốn lên sàn hoa thì phải thắng trong cuộc hát đối với các cô chủ sàn Hạn Khuống. Lời các bài hát đối thường lấy trong truyện thơ Thái “Xống chụ xon xao”, “Tản chụ xiết xương”. Khi đã vào cuộc, ngoài khắp đối đáp ra là lời ứng tác giữa một bên là trai Thái, một bên là các cô chủ Hạn Khuống. Lời ứng tác tinh tế, sắc sảo thể hiện sự thông minh, tài ba của những chàng trai, cô gái Thái.
Khi đã cảm phục tài ứng tác của các chàng trai trong hát đối, các cô gái thả thang xuống chạm đất đưa tay níu mời các chàng trai lên sàn Hạn Khuống. Sau khi lên Hạn Khuống, bên gái tiếp tục thử sức tài ba, lòng kiên trì, khả năng đối đáp của bên trai là không cho ghế, bên trai lại khắp xin ghế ngồi. Cứ thế, xin được ghế ngồi rồi lại khắp đối xin ống điếu thuốc lào...
Sau một loạt các bài khắp, các chàng trai đã vượt qua thử thách và được các cô gái đồng ý cho dự cuộc vui đến thâu đêm. Khi chàng trai và cô gái nào để ý đến nhau, có tình cảm riêng với nhau thì tự đến bên nhau để tỏ tình bằng những lời khắp đối ân tình, sâu lắng. Cứ như thế, cuộc vui cuốn hút các cô gái Thái thể hiện sự kéo tay bằng việc thêu dệt, xe sợi, cán bông không biết mỏi mệt; còn các chàng trai thi đan giỏ, đan hom, thi thổi sáo, đánh đàn tính bằng những làn điệu níu kéo lòng người, tình người.
Hạn Khuống có thể diễn ra trong nhiều ngày, có các hình thức vui chơi phong phú, đa dạng như: Tung còn, múa xòe, tó má lẹ, chơi cù... Khi hoàng hôn buông xuống, sinh hoạt trên sàn Hạn Khuống lại trở nên thắm nồng và trầm lắng lời khắp giao duyên của trai gái Thái.
Sinh hoạt Hạn Khuống là nét văn hóa mang đậm giá trị tinh thần trong đời sống thường nhật, biểu trưng tình cảm của người Thái. Khắp đối đáp giao duyên trên sàn Hạn Khuống là sự kết tụ văn hóa Thái ở Tây Bắc nói chung và người Thái ở Lai Châu nói riêng, mà ở đó khởi nguồn từ cuộc sống và được biểu hiện nét sinh hoạt văn hóa tinh thần đầy cảm xúc của người Thái. Sinh hoạt văn hóa trên sàn Hạn Khuống làm con người thêm yêu cuộc sống, nhìn cuộc sống tốt đẹp hơn, cuộc sống tràn ngập tình nghĩa, tính bao dung và lòng nhân ái.
Lễ hội cốm mới
Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu (Lễ hội cốm mới) của người Thái trắng, xã Phong Thổ (trước là xã Mường So, huyện Phong Thổ) có từ rất lâu đời, là nơi người dân cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi phát triển.
Lễ hội cốm mới cũng là nơi giao lưu tình cảm của các cư dân trên địa bàn toàn tỉnh Lai Châu. Tuy nhiên, lễ hội này không được tổ chức trong một thời gian nên đã dần bị mai một. Năm cuối cùng diễn ra Lễ hội là năm 1946, trải qua 61 năm gián đoạn, từ năm 2007, lễ hội đã được tổ chức, phục dựng lại tại bản Huổi Én, xã Phong Thổ (trước là xã Mường So, huyện Phong Thổ).
Từ đó, lễ hội được tổ chức đều đặn vào rằm tháng 9 Âm lịch hàng năm, đây cũng chính là thời điểm lúa non thích hợp nhất để chọn về làm cốm.
Lúa dùng để làm cốm phải là lúa nếp. Có rất nhiều loại lúa nếp có thể làm cốm như: Lúa lương phượng, lúa nếp thơm, nếp tan, nếp quýt, nếp hoa... Ngày trước, lúa được chọn làm cốm thường là lúa nếp nương bởi vì loại lúa này thường giữ được chất ngọt của hạt nếp, mùi thơm và độ dẻo của hạt lúa cũng không bị mất đi, đặc biệt hơn nữa, những hạt lúa nếp nương lại rất tròn và mẩy. Khi chọn lúa làm cốm không nhất thiết phải lấy lúa của một gia đình nào, mà trong thời gian chuẩn bị, người dân tập trung ra cánh đồng của bản tìm ruộng lúa có giống lúa phù hợp với các tiêu chuẩn trên để sử dụng loại lúa trong ruộng đó. Số lượng lấy nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng của buổi lễ.

Trước hôm diễn ra buổi lễ một ngày, một bà cụ trong bản có kinh nghiệm về làm cốm cùng với chủ ruộng và một tốp nữ của bản cùng ra đồng lấy lúa. Bà cụ tiến lên trước thửa ruộng, rồi đọc lời khấn: “Qua quá trình cày cấy, chăm sóc giờ đây lúa ở ruộng đã chín vàng, lúa trên khắp cánh đồng đã chín. Con cháu sẽ tổ chức ăn cốm mới, xin với ông bà thổ địa được lấy lúa về làm cốm”.
Khấn xong, bà cụ sẽ cắt một ít lúa trong ruộng đó làm mẫu rồi hướng dẫn các cô gái cắt đủ số lượng lúa cần lấy. Dụng cụ để cắt lúa là dao và liềm. Những cô gái được chọn để cắt lúa phải là những cô gái còn trinh tiết; nếu là những người đã có gia đình thì gia đình thuận hòa yên ấm, con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Theo quan niệm của người dân nơi đây, chỉ những người đó lấy lúa về làm cốm mới thể hiện được sự trưởng thành, phương trưởng của con cháu, sự nguyên vẹn đối với các thần linh.
Lễ hội Xòe chiêng
Xòe chiêng là một trong những lễ hội quan trọng của dân tộc Thái vùng Tây Bắc nói chung và người Thái huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu nói riêng. Người Thái có câu: “Không vui, không xòe cây lúa không trổ bông, không xòe cây ngô không ra bắp, không xòe trai gái không thành đôi”. Vì vậy, múa xòe đã trở thành một nét văn hóa, phong tục truyền thống không thể thiếu trong cuộc sống của cộng đồng người dân tộc Thái.
Lễ hội Xòe chiêng của dân tộc Thái ở Lai Châu được diễn ra từ mồng 1 đến 15 tháng Giêng. Vào các buổi tối, thanh niên các bản đốt đống lửa to ở bãi trống giữa bản rồi nổi trống chiêng thôi thúc mọi người đến với vòng xòe, xích lại, quây quần bên nhau.
Mọi người tham gia xòe đều nắm tay nhau, làm thành một hoặc nhiều vòng xòe tùy theo số người và không gian sân bãi, có thể tách thành nhiều vòng riêng hay nhiều vòng tròn đồng tâm nếu như người đông, bãi nhỏ. Điệu xòe vòng tuy đơn giản nhưng tính cộng đồng cao nên thu hút đông đảo mọi người tham gia.
Trong lễ hội còn có các trò chơi dân gian như: Tung còn, tù lu, đẩy gậy, bắn nỏ, tó má lẹ, và phần thi ẩm thực thể hiện sự khéo léo, tài hoa của người phụ nữ Thái với những món ăn truyền thống như: Cơm lam, cá nướng.
Kết thúc lễ hội Xòe chiêng là những tiết mục văn nghệ và vòng xòe đoàn kết. Bên ngọn lửa hồng rực cháy, đồng bào Thái tay trong tay vang lời ca tiếng hát trên nền tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng. Bên những bình rượu cần được bày sẵn, mỗi người dân lại thưởng thức hương vị của núi rừng và cùng dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho nhau khi mùa xuân mới đã về.
Lễ hội Lùng Tùng
Lễ hội Lùng Tùng của dân tộc Thái, huyện Than Uyên, được tổ chức hằng năm vào dịp tháng Giêng sau Tết, thường diễn ra từ ngày mùng 6 đến mùng 10 tháng Giêng.
Lễ hội này được tổ chức lần cuối cùng vào năm 1960 và dần bị mai một. Đến năm 2018, lễ hội đã được phục dựng và tổ chức, góp phần bảo tồn gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái nói riêng và đồng bào các dân tộc của huyện Than Uyên cũng như tỉnh Lai Châu nói chung.
Lễ hội Lùng Tùng (Lễ hội xuống đồng) của người Thái gồm hai phần: Lễ và hội. Trong phần lễ, diễn ra nghi thức cày bừa, gieo hạt, chính quyền cùng bà con dân bản xuống đồng tham gia cày bừa, mở đầu cho một năm sản xuất mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, người dân được khỏe mạnh. Trong phần hội, bà con và khách thập phương được tham gia các trò chơi dân gian như: Tó má lẹ, bắn nỏ, kéo co, tung còn và giao lưu văn nghệ với những tiết mục hát dân ca, múa xòe, nhảy sạp.
Lễ hội Gầu tào
Xưa kia, Lễ hội Gầu tào thường do các gia đình người Mông giàu có đứng ra tổ chức, nhằm mong thần linh ban cho năm mới có nhiều con cháu, lúa xếp đầy bồ, ngô treo đầy gác. Dần dần, Gầu tào trở thành lễ hội vui xuân, cầu phúc truyền thống của cả bản làng, mong cho mưa thuận gió hòa, người người mạnh khỏe, nhà nhà yên vui. Hội được tổ chức ngay sau Tết Nguyên đán trong tiết xuân. Tất cả các dân tộc đều tham gia, góp công, góp của, góp cả bản sắc của dân tộc mình, không phân biệt là người Mông hay người Dao, Hà Nhì,...
Ngày mở hội Gầu tào thường chọn ngày thìn hoặc ngày Sửu trong tháng đầu tiên của năm mới. Người ta chọn một cây tre to, cao, chắc chắn để làm cây nêu, trồng ở giữa một bãi đất bằng phẳng, rộng rãi. Trên cây nêu mang một bầu rượu, túm thóc nương, bắp ngô và những dải băng nhiều màu sắc để kính thần linh trên trời, dưới đất. Mấy người trai làng khỏe mạnh làm thịt một chú trâu béo để làm cỗ cúng, các cô gái trẻ đẹp thì xúng xính trong điệu múa truyền thống dâng trời. Người chủ lễ thường là già làng, trưởng bản có uy tín, thay mặt bà con thực hiện nghi lễ huyền bí, linh thiêng, trước khi tất cả cùng bước vào phần “hội” vui vẻ và náo nhiệt kéo dài suốt ba ngày.

Người đến hội để xem múa, nghe hát. Các thiếu nữ khoe sắc trong những bộ trang phục đẹp nhất của dân tộc mình, thanh niên trai tráng thì ra sức thi tài trong các trò chơi dân gian, môn thể thao dân tộc như đẩy gậy, kéo co, chọi gà, bắn nỏ... Hai bên đường, một số chiếc lán tạm được dựng lên để làm nơi nghỉ chân, thưởng thức các món ăn dân tộc do những người nông dân miền núi tự tay chế biến từ sản vật của núi rừng...
Lễ hội Gầu tào là tín hiệu báo mùa xuân về, là điểm hẹn văn hóa đáng trân quý, giữ gìn của con người Lai Châu. Sau đó, bà con lại lên nương, xuống đồng, bắt tay vào lao động sản xuất với niềm tin và hy vọng về một năm mới ấm no, hạnh phúc.
Tết cổ truyền của người Hà Nhì
Tết cổ truyền của người Hà Nhì ở Mường Tè được tổ chức vào ngày Thìn cuối tháng 10 Âm lịch. Đây là một trong số ít dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam ăn tết cổ truyền dân tộc theo lịch riêng của dân tộc mình mà không ăn Tết Nguyên đán.
Người Hà Nhì thường chọn 3 ngày trong tháng con Chuột (Hu Pa La), khi ấy mùa màng đã thu hoạch xong, tức là khoảng thời gian vào tháng 11 dương lịch để ăn tết. Tết bắt đầu vào ngày Rồng, không kể đầu tháng hay cuối tháng, tùy từng bản tổ chức sớm hay muộn.
Để chuẩn bị Tết Hồ Sự Chà, các gia đình đồ xôi, giã bánh giầy, làm bánh trôi. Các gia đình làm rất nhiều bánh giầy, cứ hai cái một cặp để dâng tổ tiên, sau đó lấy chia cho con cháu hưởng lộc, phần còn lại thì gia đình làm quà cho khách.
Trong ngày Tết, người Hà Nhì dâng 3 cái bánh trôi lên bàn thờ tượng trưng cho con người, lương thực, thực phẩm; 3 bánh này hết tết sẽ được bỏ vào bếp lò nướng xem cái nào phồng to thì biết năm tới thứ đó sẽ phát triển tốt nhất.
Mâm cúng sáng ngày thứ nhất đặt lên bàn thờ tổ tiên ngoài bát nước chè, bánh giầy, bánh trôi, rượu, gừng, gói muối ớt, còn phải có thêm thịt lợn, các loại hoa quả, các sản vật trồng trong vườn nhà, lấy mỗi thứ một ít. Người Hà Nhì vẫn giữ được phong tục truyền thống, sáng ngày mùng 1 Tết, con cháu nội ngoại đều đến chúc Tết ông bà và cúi lạy bàn thờ tổ tiên. Sau khi cúng xong thì cả gia đình cùng ăn bữa cỗ mừng năm mới. Cháu nội, cháu ngoại cũng được ông bà chia lộc và cầu phúc cho lớn nhanh, mau chóng trở thành trụ cột trong gia đình. Con dâu mới trong nhà được mẹ chồng cho lộc cúng bàn thờ và cầu mong cho con dâu khỏe mạnh, gia đình thuận hòa, êm ấm.
Ngày mùng 1 Tết, người Hà Nhì rất thích các em bé từ 12 tuổi trở xuống, không kể trai, gái đến xông nhà, đó là điều may mắn của gia đình. Bữa cơm tụ họp gia đình xong, mọi người mặc trang phục truyền thống dân tộc rất đẹp để đi hát và chúc Tết từ bản nọ sang bản kia. Thanh niên thường tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống như: Đánh cầu lông gà, hát giao duyên, đánh cù...
Vào ngày thứ ba, kết thúc Tết Hồ Sự Chà, tức là ngày Mùi (Zo no), các gia đình làm một mâm lễ cúng để cảm ơn Trời Đất đã ban sức khỏe, che chở và cầu mong năm mới mùa màng sẽ bội thu, súc vật đầy đàn, mọi người trong nhà được bình an...
Lễ hội té nước
Lễ hội Bun Vốc Nặm (Lễ hội té nước) là lễ hội đặc sắc của người Lào ở Lai Châu, xuất phát từ tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước, chứa đựng nhiều nét sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, trò chơi dân gian lành mạnh.
Lễ hội té nước được tổ chức trước mỗi mùa vụ, nhằm cầu mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi. Các tiết mục văn nghệ, trò chơi dân gian truyền thống mang đậm bản sắc cư dân bản địa... trong lễ hội té nước thu hút đông đảo cộng đồng các dân tộc quanh vùng tham gia.
Phần lễ diễn ra việc cúng cầu các thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, cây cối sinh sôi nảy nở không bị sâu bệnh phá hoại, người người mạnh khỏe, nhà nhà hạnh phúc. Các già làng, trưởng bản và nam nữ thanh niên trong xã đập mẹt, gõ trống, tuốt lá cọ, tuốt lạt... giả làm tiếng sấm, tiếng mưa rơi. Họ đội nón, khoác áo tơi đến từng nhà xin nước, xin lộc trời... Đó là những hành động mang ý nghĩa phồn thực, cầu mưa xuống cho vụ mùa tốt tươi, bội thu...
Phần hội được bắt đầu khi trai bản trên, gái bản dưới, không phân biệt người già, trẻ nhỏ kéo nhau ra suối té nước. Với quan niệm ướt nhiều, may mắn sẽ đến nhiều nên ai cũng mong mình được té càng ướt càng tốt. Mang trên mình bộ quần áo ướt sũng, mọi người cùng lên bờ thưởng thức các món ăn làm từ sản phẩm nông nghiệp, do chính bà con dân tộc Lào làm như: Cơm lam, bánh chưng, xôi ngũ sắc...
Lễ hội kết thúc bằng các trò chơi dân gian truyền thống như: Đẩy gậy, tung còn, kéo co...
Lễ hội Cúng rừng
Từ lâu, Lễ hội Cúng rừng đã trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Mông ở xã Dào San (trước là xã Tung Qua Lìn, huyện Phong Thổ). Lễ hội được tổ chức đúng vào ngày con Rồng của tháng Giêng hàng năm, với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân bản khỏe mạnh, cây rừng xanh tươi... Trước khi diễn ra lễ cúng chính, nhân dân hòa mình vào không khí vui tươi với các tiết mục văn nghệ, các trò chơi dân gian đậm đà bản sắc dân tộc.
Các môn thể thao dân tộc như đẩy gậy, kéo co và thi giã bánh giầy và nhiều trò chơi khác hấp dẫn, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương tham gia.
Sau phần hội là phần lễ cúng chính thức. Mỗi gia đình trong bản cử một người nam giới vào khu rừng thiêng đã được bảo vệ lâu năm để chuẩn bị cho nghi thức cúng rừng. Lễ cúng diễn ra tại cây to, đẹp nhất của rừng thiêng. Thầy cúng là người khỏe mạnh, có uy tín trong bản.
Lễ vật cúng rừng gồm có: Một con gà trống, lợn, rượu và hương, giấy bản do các hộ dân đóng góp. Các lễ vật này được cúng dâng thần rừng hai lần. Lần đầu là cúng đồ sống, sau đó các trai bản làm thịt, luộc chín để cúng lần thứ hai, dâng lên thần rừng với tất cả lòng thành kính.
Tất cả những người con trai trong bản đều phải tham dự cúng rừng. Riêng phụ nữ thì không được đến lễ cúng chính. Cúng rừng là để cầu mong thần rừng và các vị thần khác phù hộ cho dân bản một năm khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt, trâu bò và lợn gà phát triển, không bị ốm đau.
Lễ hội Cúng rừng không đơn thuần mang ý nghĩa tâm linh, mà còn góp phần gắn kết cộng đồng các dân tộc, gắn con người với thiên nhiên. Đồng thời, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức cho người dân trong bảo vệ phát triển rừng. Đây cũng là dịp để các cấp chính quyền và người dân địa phương tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dương những người tích cực tham gia bảo vệ rừng, giáo dục, nhắc nhở những đối tượng vi phạm luật bảo vệ rừng...
Lễ hội Then Kin Pang
Hàng năm, cứ vào mùng 10-3 Âm lịch, người Thái Trắng ở Lai Châu lại đến xã Khổng Lào để dự Lễ hội Then Kin Pang.
Truyền thuyết của người Thái Trắng kể lại rằng: Sau Pô Phà (Vua Trời) là Then có lòng bao dung độ lượng, yêu thiên nhiên cỏ cây, con người. Vì vậy, Vua Trời đã phái các thần Then xuống hạ giới đầu thai thành người phàm trần để cứu nhân độ thế. Ai đau ốm thì được Then cho thuốc. Người nào gặp rủi ro, vận hạn, Then sẽ cầu phúc cho tai qua nạn khỏi. Then cũng là người đại diện để cầu nguyện các vị thần linh trên trời tạo phúc cho dân, ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, bản Mường yên vui no ấm. Đây cũng là ngày các Lụ liệng - Lụ hương (tức là những người con nuôi được Then cầu hồn, chữa bệnh) dâng lễ tạ ơn Then.
Bàn thờ Then được trang trí rực rỡ, nhiều màu sắc. Hoa bó mạ là lễ vật chủ đạo vì loài hoa này được xem là biểu tượng của Then Kin Pang - “có hoa bó mạ mới có ngày hội Then”.
Người Thái có câu:
Bó pục púng Then cả
Bó mạ púng Then sương
(Hoa bưởi nở Then sướng
Hoa bó mạ nở Then vui).
Lễ vật dâng lên cúng Then gồm 1 con lợn luộc nguyên, 2 con gà trống luộc, trứng gà, xôi nếp cẩm, bạc trắng,... Ngoài bàn thờ và lễ vật dâng lên cúng Then và Then Kin Pang, bao giờ cũng có một mâm lễ cúng tạ ơn những người có công lập bản dựng mường, tạ ơn những vị anh hùng đã có công đánh giặc giữ mường. Mọi người đến với lễ hội đều tâm niệm thắp hương lên bàn thờ Then để cầu nguyện một năm may mắn, cuộc sống an lành, gia đình hạnh phúc. Các gia đình có người chết cũng dâng lễ vật để nhờ Then xin với các vị thần linh cho các hồn ma về hưởng.
Các lễ thức thực hiện chủ yếu do người làm Then đảm nhiệm. Ngày đầu tiên làm lễ, ông (bà) Then kiêng kị không ăn thịt các con vật; các cô gái được chọn làm Sao chẩu phải có sắc đẹp và chưa chồng để hầu hạ các vị thần xuống trần gian vui chơi.
Bước vào hành lễ, người đủ tiêu chuẩn được dân bản bầu ra mặc trang phục của Then, tay đánh đàn tính tẩu trông uy nghi như một vị tướng. Những hành động dâng hoa, dâng lễ, mời rượu, cùng những lời diễn xướng của Then như đối thoại được với các đấng thần linh tối cao trên trời. Kết thúc phần lễ, Then và các Sao chẩu múa điệu quát bó héo (quét hoa tàn):
Hoa héo hoa về gốc
Hoa úa hoa về thân
Tất cả cây cối chết trơ
Nhưng hoa vẫn nảy mầm.
Những lời bài hát này phản ánh niềm tin vào sự luân hồi bất diệt. Con người chết đi không phải là chết mà vẫn còn tiếp tục sống ở thế giới mới, cũng như những bông hoa kia héo tàn lại trở về với thân, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cũng như quá khứ không mất mà luôn hiện hữu ở trong chúng ta.
Bước vào phần hội, mọi người cùng nắm tay nhau đoàn kết chất ngất điệu xoè:
Không múa hát thì lúa nương không mảy hạt,
Hoa không kết trái,
Gái không tìm được đôi,
Trai không tìm được bạn.
Lễ hội Then Kin Pang cũng là dịp để trai bản, gái mường gặp gỡ và thể hiện mình qua những câu hát, điệu múa. Sau lễ hội, nhiều đôi trai gái đã nên vợ chồng.
Lễ hội Then có sức mạnh lan tỏa ra một vùng và thu hút các dân tộc khác cùng tham gia. Người Thái ở Mường Là, huyện Kim Bình, Vân Nam (Trung Quốc) ở xa cũng về dự hội; người Mông từ núi cao xuống; người Dao ở bản bên cũng sang... Đàn ông thì mang theo dây song dài để chơi trò chặc vai (kéo co), phụ nữ thì mang theo quả còn, én cáy để cùng chơi. Đây cũng chính là lễ hội để cố kết cộng đồng các dân tộc, qua đó tạo ra sức mạnh đoàn kết để xây dựng, phát triển bản mường, chống giặc ngoại xâm và thiên tai.
Trong hai ngày còn lại, các già bản, già mường ngồi trong nhà Then kể cho con cháu nghe về lịch sử bản mường, về các anh hùng có công đánh giặc giữ mường. Còn lớp trung niên, nam thanh nữ tú thì múa hát, chơi các trò chơi dân gian như: Tung còn, tó má lẹ, kéo co, đẩy gậy, té nước, bơi lội. Các trò chơi được mọi người tham gia hào hứng với mong ước chinh phục tự nhiên, cầu có sức khỏe cường tráng, đồng thời cũng thể hiện sự khéo léo, tài giỏi và gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng thôn bản.
Trong lễ hội còn có những món ăn dân gian truyền thống của người Thái như: cơm lam, rau gai, cà rừng, cá bống nướng, ve sầu, bọ xít, dế mèn... mà khi bỏ vào miệng nhai kỹ khách du lịch Lai Châu mới thấy được vị thơm ngon của từng món ăn, mang đậm hương rừng Tây Bắc.
Lễ hội Then Kin Pang là nét văn hóa đặc sắc, là hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Những trò chơi dân gian đầy ý nghĩa
Đến với miền biên viễn cực Tây của phía Bắc Tổ quốc, khách du lịch Lai Châu sẽ dễ dàng bị cuốn hút vào các trò chơi dân gian đặc sắc vừa mang tính thể thao nhưng cũng đầy ý nghĩa nhân văn và mang đậm giá trị lịch sử. GrapAir sẽ điểm một số trò chơi nổi bật và phổ biến ở miền đất này ngay sau đây.
Ném Pao
Ném Pao được xem là trò chơi dân gian truyền thống, đặc sắc của người Mông nói chung và người Mông ở Lai Châu nói riêng. Đây cũng là trò chơi không thể thiếu trong những ngày hội truyền thống, lễ tết của người Mông và là trò chơi chủ đạo trong các lễ hội: Nào Sồng, Cúng bản, Gầu tào.

Trò chơi ném Pao thu hút đông đảo nam nữ tham gia, nhất là trong những ngày tết cổ truyền của người Mông, trong dịp này, trai gái có điều kiện vui chơi, tìm hiểu bạn đời. Khi tham gia các lễ hội, các cô gái Mông thường mang theo những quả Pao, như đồ trang sức không thể thiếu với mong muốn sẽ tìm được một người đàn ông phù hợp với mình.
Quả Pao của người Mông được khâu nối bằng các miếng vải lanh thành trái tròn, to bằng quả cam rồi nhồi hạt lanh hoặc bông vải vào bên trong. Các thiếu nữ Mông rất sáng tạo dùng vải thổ cẩm của người Thái, chắp ghép những mảnh vải nhiều màu khác nhau lại và dùng lụa tơ tằm để tạo sắc màu cũng như sự mềm mại cho quả Pao. Qua đó, các chàng trai Mông đi tìm vợ thì nhìn quả Pao cũng có thể biết được khả năng dệt vải, thêu thùa của cô gái. Quả Pao tốt thì các đường khâu phải kín, khi cầm quả Pao không được cứng hoặc mềm quá, người phụ nữ Mông giỏi giang, đảm đang thì phải biết làm quả Pao tốt.
Trong những lễ hội, người dân tộc Mông sẽ đặt trò chơi ném Pao ở những khu đất rộng và tương đối bằng phẳng. Để tham gia trò chơi, người chơi phải phân chia làm 2 đội, bên nam và nữ với khoảng cách 5-7m. Tài khéo léo của người ném Pao là không để cho Pao rơi xuống đất và được giao ước với nhau bằng về số lần ném, số lần bắt được Pao, nếu bên nào thua thì phải hát một bài hoặc làm một điều gì đó do đội thắng quy định.
Khi ném Pao là lúc trai gái trao cho nhau những ánh mắt nụ cười. Cùng ném Pao và trao nhau tình cảm, khi mà người con trai cảm mến một cô gái nào thì giữ quả Pao để lấy cớ đó cầm đến nhà hay tìm gặp cô gái để bày tỏ tình cảm, khi thấy hợp nhau họ sẽ cùng hẹn hò và trở thành tình nhân của nhau. Đây được xem là nét đặc sắc và tính nhân văn của trò chơi ném Pao.
Chơi Đánh yến
Người Mông ở Lai Châu có nhiều nét văn hóa đặc sắc, trong đó có trò chơi Đánh yến trong ngày xuân và những dịp hội hè.

Đánh yến ở vùng cao có hình thức không khác với môn thể thao đánh cầu lông ở vùng xuôi là mấy. Cũng là thao tác tung con yến (hay còn gọi là quả yến) lên không trung (giống như quả cầu lông), dùng bàn yến đánh qua lại giữa 2 người chơi với sự vận động của con người, mục đích đỡ được con yến vào đúng bàn đánh, không để yến rơi xuống đất. Song, trò chơi mang hình thức thể thao này lại không chỉ đơn thuần là thể thao vì cũng rèn luyện sức khỏe, nhưng không tổ chức giải thi đấu, không có luật chơi, không phân thắng - thua.
Một bãi đất trống được chọn trước cho ngày hội Đánh yến. Bàn đánh yến được làm bằng gỗ xoan, sa mộc, thông... phải đảm bảo vừa nhẹ, vừa chắc và khó vỡ, nhìn tổng thể gần giống với cái la-két bóng bàn.
Con yến được làm từ một đốt của cây trúc và lông gà. Để cho con yến đẹp, lông gà phải được chọn từ con gà trống hoặc gà lôi rừng có hoa, làm sao tạo cho con yến khi đánh lên không trung có thể bay xa hay bay gần, phù hợp với người chơi là người già hay thanh niên.
Đánh yến chỉ cần có hai người và một bãi đất bằng không rộng lắm, nếu có nhiều người chơi thì cần rộng hơn.
Trò chơi tó má lẹ
Trong lễ hội truyền thống của người Giáy, Thái... thường không thể thiếu trò chơi tó má lẹ (đánh quả nóc lách). "Tó” nghĩa là chơi hoặc đánh, còn “má lẹ” là tên của một loại quả.
Trò chơi tó má lẹ được tổ chức đơn giản, ai cũng có thể tham gia, không phân biệt già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Sân chơi chỉ là một bãi đất nhỏ, bằng phẳng hoặc có thể chơi dưới gầm sàn. Quả má lẹ được lấy từ những cánh rừng già, thuộc họ dây leo, to gần như quả cây phượng, có vỏ cứng, dài khoảng 30cm, mỗi quả có 4 - 5 hạt hình tròn, màu nâu đậm, chắc, càng chơi nhiều thì hạt càng đẹp, nhẵn bóng và đây là một đồ vật dùng để chơi lâu dài.

Trò chơi tó má lẹ có nhiều cách chơi, thông thường người ta chơi theo bốn bước: bước thứ nhất, người chơi đặt “má lẹ” lên đầu gối, dùng ngón cái bật “má lẹ” sao cho trúng “má lẹ” đội bạn và bay đến đích hoặc quá đích theo thoả thuận; bước thứ hai, người chơi đứng ở vạch quy định tung “má lẹ” về phía hàng “má lẹ” đội bạn, “má lẹ” dừng ở điểm nào, lấy điểm đó làm điểm để đánh; bước thứ ba, người chơi đặt má lẹ lên mu bàn chân, vừa nhảy vừa dùng chân đánh “má lẹ” sao cho “má lẹ” bắn vào “má lẹ” đội bạn; bước cuối cùng, người đánh tung “má lẹ” đánh dấu vạch đánh, rồi từ vạch đánh dùng “má lẹ” của mình đánh cho trúng “má lẹ” đội bạn. Người nào vượt qua được cả bốn bước chơi trên sẽ là người thắng cuộc.
Hội chơi tó má lẹ luôn sôi nổi, hào hứng, tiếng vỗ tay của người cổ vũ cùng với tiếng reo hò của người thắng cuộc làm cho không khí ngày xuân thêm sôi động.
Tung còn
Tung còn là một trò chơi không thể thiếu trong các dịp lễ tết của người Thái ở Lai Châu. Người Thái quan niệm quả còn mô phỏng Rồng Còn (Luông Còn) luôn mang mưa thuận gió hòa, người yên vật thịnh, vụ mùa xanh tốt bội thu đến cho con người.

Quả còn bao giờ cũng làm bằng vải màu đỏ, đen, trắng, khâu thành hình vuông, trong nhồi hạt bông, thóc giống và một ít vỏ trấu. Quả còn được đính 5 tua màu, bốn tua ở bốn góc và dây đáy, tượng trưng cho thân rồng, đính chín tua so le nhau. Sân tung còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn một mặt dán giấy đỏ, tượng trưng cho mặt trời, mặt kia dán giấy vàng tượng trưng cho mặt trăng, cũng có thể hiểu cả hai mặt giấy là tượng trưng cho sự trinh trắng của người con gái.
Người Thái ở Lai Châu có hai cách còn:
1- Còn Vòng: Ném còn qua vòng tròn rộng 30 - 40 cm dán giấy đỏ trên đỉnh cây nêu cao 10-15cm;
2- Còn xai: Nam nữ chia 2 hàng, bên tung, bên đón, ai bắt trượt, làm quả còn rơi xuống đất sẽ phải có tặng vật cho người tung. Thông qua hội tung còn, đã có nhiều đôi trai gái trở thành vợ chồng.
Bắn nỏ
Bắn nỏ được xem là trò chơi tiêu biểu cho truyền thống thượng võ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Việc sử dụng nỏ để săn bắt giờ không còn phù hợp, nhưng như để nhắc lại truyền thống đấu tranh sinh tồn của tổ tiên, nên vào những dịp lễ hội, các cuộc thi bắn nỏ lại được tổ chức để tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc. Hiện nay, cho dù có rất nhiều môn thể thao hiện đại xuất hiện nhưng không làm mai một trò chơi truyền thống này.
Bắn nỏ là một trò chơi dân gian đã trở thành môn thể thao không thể thiếu trong mỗi ngày lễ, ngày hội lớn của các địa phương trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Hàng năm, vào các dịp lễ hội, các địa phương đều tổ chức giải bắn nỏ với sự tham gia nhiệt tình của đông đảo đồng bào đến từ các xã, phường trên địa bàn.

Vào những ngày đầu xuân, các địa phương đều tổ chức được các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao, trong đó có cuộc thi bắn nỏ. Đồng thời, bắn nỏ cũng được tổ chức vào các ngày quan trọng của thôn, xóm: ra mắt làng văn hóa, hay các sự kiện nhân các ngày lễ lớn trong năm, các giải thể thao không chuyên nhằm thu hút nhân dân địa phương tham gia.
Để làm nỏ, người ta phải bỏ ra vài ngày, thậm chí cả tuần cất công tìm gỗ làm nỏ, cây gai làm dây cung và cũng chừng ấy thời gian để chế tạo ra một chiếc nỏ thô. Để chiếc nỏ có thể mang ra thi đấu phải mất hàng tháng chỉnh sửa cho chính xác. Việc vót tên cũng phải thật tỉ mỉ trong từng đường dao.
Người bắn giỏi phải tập luyện thường xuyên, tập cho đôi tay khỏe, đôi mắt tinh nhanh. Họ căng dây nỏ, vót tên và tập các động tác bắn cho thật thuần thục. Vận động viên bắn nỏ đòi hỏi phải có thần kinh khỏe, tâm lý bình tĩnh, mắt sáng và tay chắc để giương cánh cung ngắm bắn chính xác vào tiêu điểm. Đây là bộ môn đòi hỏi kỹ thuật, tính chính xác cao và sức mạnh.
Để duy trì, phát huy môn bắn nỏ, ngành Thể dục thể thao đã đưa bắn nỏ trở thành một môn thi đấu tranh giải trong các kỳ đại hội thể dục thể thao cấp quốc gia. Các vận động viên có thể tham gia thi đấu đơn nam, đơn nữ; phối hợp đồng đội. Giải vô địch bắn nỏ toàn quốc luôn là dịp để các vận động viên thể hiện tài năng và tích lũy kinh nghiệm cho bản thân; là dịp để sàng lọc, tuyển chọn ra những vận động viên xuất sắc nhất để từ đó có kế hoạch đào tạo phát triển lâu dài. Giải vô địch bắn nỏ còn nhằm lưu giữ, phát triển những môn thể thao dân tộc đang dần mai một, cũng như gìn giữ và phát triển các môn thể thao độc đáo và giàu tính truyền thống.
Đẩy gậy
Đẩy gậy là một trò chơi dân gian quen thuộc với các dân tộc ở Lai Châu. Đây là dịp để cho các chàng trai, cô gái tại các bản so tài với nhau. Trò chơi này đòi hỏi người tham gia phải có sức khỏe tốt, bền bỉ và biết chớp thời cơ thật nhanh. Không chỉ những thanh niên cường tráng, khỏe mạnh tìm đến trò chơi, môn thể thao này, mà những người lớn tuổi, người già cũng háo hức tham gia.
Những ai không đủ khả năng thi đấu thì làm cổ động viên, cổ vũ hết mình để tăng thêm tinh thần cho những vận động viên khi có các trận đấu.

Trước đây, trò chơi đẩy gậy được tổ chức trong những ngày lễ, tết. Sau này, đẩy gậy, trở thành môn thể thao quần chúng, thu hút nhiều tầng lớp, lứa tuổi yêu thích tham gia bởi sự đơn giản trong tổ chức, sôi động khi thi đấu. Chỉ với một cây gậy thi đấu làm bằng loại gỗ tốt, thẳng hoặc tre già có chiều dài 2m, được sơn 2 màu khác biệt (thường sơn màu đỏ - vàng hoặc đỏ - trắng); thân gậy được làm nhẵn và có đường kính bằng nhau (khoảng 5cm) là đã đủ dụng cụ để bắt đầu trò chơi đẩy gậy.
Theo quy định luật chơi, bên nào chân chạm vào vạch hoặc bị đẩy ra khỏi vòng tròn trước là thua cuộc. Mỗi trận thi đấu đẩy gậy thường diễn ra trong 2-3 hiệp. Kết thúc trận đấu, trọng tài chính và 2 vận động viên mặt hướng về ban tổ chức, trọng tài chính cầm tay 2 vận động viên, giơ tay vận động viên thắng cuộc lên cao, sau đó các vận động viên rời sân.
Hiện nay, không chỉ dừng lại ở trò chơi dân gian, đẩy gậy đã được đưa vào thi đấu mang tính chuyên nghiệp trong các cuộc thi thể thao, trở thành một môn thể thao dân tộc được phát triển rộng rãi.
Đẩy gậy cần đến sức khỏe và sự khéo léo của mỗi vận động viên khi tham gia thi đấu. Sức mạnh là yếu tố cơ bản quyết định sự thắng thua, nhưng bên cạnh đó, những yếu tố quan trọng như: Tâm lý, kỹ thuật, kinh nghiệm thi đấu, sự dẻo dai cũng là yếu tố không thể thiếu được của một vận động viên đẩy gậy chuyên nghiệp.
Đánh cù
Đánh cù (hay còn gọi là Tù Lu) là trò chơi dân gian phổ biến trong nhiều tộc người ở Lai Châu. Tuy nhiên, quả cù của mỗi dân tộc thường khác nhau về kích thước, hình dáng cũng như quy cách thức thực hành chơi, quy định thắng thua.
Để có được con cù tốt, ngoài kinh nghiệm và kỹ thuật gọt, đẽo của người chế tác, cần phải có nguyên liệu là những loại gỗ cứng (như: đinh, nghiến) có đường kính chừng 10cm. Dụng cụ chế tác cù chỉ là dao nhọn, một miếng gỗ nhỏ làm giá đỡ. Vừa đẽo, người làm vừa thử quay để căn độ chuẩn và những người bạn cùng nhau ngắm, cho ý kiến để con quay hoàn thiện hơn.
Chiếc cù của trẻ em trai người Mông được làm từ loại gỗ cứng, đẽo tròn, đầu dưới thu nhỏ dần thành nhọn, đầu trên mâm xôi như quả chanh cắt lát hay dạng bán cầu. Chiếc cù của trẻ em trai người Dao cũng làm từ gỗ cứng, đẽo tròn, đầu dưới cũng thu dần thành nhọn, đầu trên thắt thành vai và để nhỏ một đoạn ngắn 2cm như chiếc nắp tích pha trà để làm nơi quấn dây.

Dân tộc Thái, Kinh cũng có con quay (cù) với đặc điểm một đầu nhọn có đóng đinh, còn con quay của người Mông thì không đóng đinh và ở phần dây cuốn con quay có cán cầm. Dây quấn quanh con quay cho đến sát cán cầm, một tay cầm con quay, một tay cầm cán (tay thuận dùng cầm cán), dùng lực mạnh từ cánh tay cầm cán đồng thời buông tay cầm con quay, con quay theo lực vung của cánh tay lao đến con quay được quay sẵn tại các vòng tròn cố định.
Khi chơi đánh cù, khu đất được chọn phải bằng phẳng. Trẻ em thường dùng dây mềm như: Vải, dây sợi bông, dây sợi gai, dây sợi đay... khá chắc (riêng dây quấn cù của trẻ em người Mông có buộc thêm một đoạn cây cứng có đường kính khoảng 1,5cm, dài 35 - 40cm), tùy từng loại cù, trẻ em quấn vào phần trên hay phần dưới của chiếc cù sau đó văng mạnh xuống vị trí đất đã định. Khi văng cù, dây được đồng thời kéo mạnh ngược trở lại, tạo lực cho cù quay tít dưới mặt đất.
Thông thường, chơi cù là một trò chơi tập thể, trẻ em trai phân ra làm hai nhóm, mỗi nhóm từ 1 đến 2 người hoặc nhiều hơn nhưng không quá 4 người mỗi bên.
Trước khi vào cuộc chơi, hai bên cùng đồng thời văng mạnh cù của mình xuống đất để chọn bên thắng, bên thua; bên thua là bên có cù quay dừng trước cù của đối phương. Khi chọn được bên thua thì bên thua phải văng cù của mình xuống cho bên thắng bắt đầu đánh cù, rồi lần lượt bên thua cho cù mình quay trước để từng người bên nhóm thắng dùng cù của mình văng đập chiếc cù đang quay của đối phương dưới đất, nếu cù của người nào dừng quay trước thì cù của người đó thua, và cứ như vậy lần lượt hết số người trong nhóm nếu thắng được đối phương thì đảo lại cho nhóm thứ nhất xuống cù trước, mà nếu nhóm thứ hai vẫn tiếp tục thua thì vẫn phải xuống trước cho đối phương tiếp tục đánh.
Có thể nói, trò chơi dân gian đánh cù yêu cầu trước tiên người chơi phải có sức khỏe, tinh mắt và phải tính toán nhanh chuẩn xác mới đánh trúng cù đang quay, đang di chuyển vị trí liên tục của đối phương dưới mặt đất. Mặc dù trò chơi dân gian trên có chứa đựng những yếu tố giao thoa giữa nhiều các dân tộc khác nhau nhưng trò chơi đánh cù của trẻ em trai các dân tộc Lai Châu có đậm chất thể thao hơn và phản ánh tính sinh hoạt của cộng đồng.
Ngày nay, đánh cù đã trở thành môn thể thao truyền thống được nhiều người yêu thích và đưa vào thi đấu tại Hội thi Thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc, tại Ngày hội Văn hóa - thể thao các dân tộc...
Đi Lai Châu nên mua gì?
Món thắng cố ngựa được làm từ thịt và nội tạng của ngựa, và các loại gia vị chính như gừng, xả, mắc khén, hoa hồi, thảo quả… được du khách ưa chuộng khi đến Lai Châu, đặc biệt ở chợ đêm San Thàng.

Lai Châu có rất nhiều cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao và trở thành những sản vật được ưa thích của du khách thập phương, như: cây chè, lúa Dâu, lúa Séng Cù, lúa Khẩu ký, lúa nếp Tan Cò Giàng, cây ăn quả (cây chuối, cây đào, cây lê, cây mận, cây cam, cây chanh leo, cây ổi, sơn tra - táo mèo,…), cây mắc ca, khoai sọ, cây hoa hồng, các loại cây thảo dược (đương quy, sa nhân, sả)… và những sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao và 4 sao, như: miến dong, gạo Séng Cù, gạo nếp, trà Đông phương mỹ nhân, trà xanh, rượu Men lá, thịt trâu sấy khô, đông trùng hạ thảo, mật ong, cao Astiso…

Lai Châu cũng có những vật nuôi chủ lực lấy thịt, như: thỏ, cá trắm, cá chép, cá rô đơn tính, cá trê lai, cá bống tượng, cá vược, cá tra, cá chim, cá tầm và cá hồi.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu
Công ty TNHH Dịch vụ GrapAir Travel hân hạnh phục vụ Quý khách!
GrapAir đưa, đón sân bay Cam Ranh đi về Phan Rang - Phan Thiết - Mũi Né - Đà Lạt - Nha Trang, sân bay Liên Khương đi về Phan Rang - Phan Thiết - Đà Lạt - Nha Trang, sân bay Tân Sơn Nhất - Sài Gòn đi về Phan Thiết - Mũi Né - Bình Thuận - Phan Rang - Mỹ Hòa - Ninh Thuận, sân bay Buôn Ma Thuột đi về Buôn Hồ - Ea H'leo - Buôn Đôn - Krông Bông - Ea Kar - Gia Nghĩa - Krông Nô ... đi lại, du lịch, lễ hội, cưới hỏi...
Hãy gọi GrapAir 0983 00 1155 với những dòng xe đời mới 4 chỗ, 7 chỗ, 16 chỗ, 30 chỗ và 45 chỗ phù hợp với các nhóm khách khác nhau - đi riêng một mình, cặp đôi, gia đình, nhóm bạn, họp lớp, hội khóa, họp mặt... với dàn xe xịn sò, tài xế chuyên nghiệp và mức chi phí cực hợp lý.
Kính mời Quý khách đăng ký sử dụng dịch vụ cho thuê xe đưa đón sân bay Cam Ranh, Nha Trang, ga Tháp Chàm, bến xe khách Ninh Thuận, Phan Rang và Ninh Chử bằng cách nhắn tin, gọi điện 0983001155 cung cấp thông tin: "Tên, số điện thoại, thông tin chuyến bay, số người, địa điểm,...". Chúng tôi sẽ liên lạc với Quý khách.
GrapAir cung cấp dịch vụ đưa đón sân bay, đi lại, du lịch, lễ hội, cưới hỏi… với giá hợp lý nhất. GrapAir cũng cung cấp khách sạn, homestay và cano để Quý khách lưu trú và khám phá những miền đất đẹp trọn vẹn nhất.
GrapAir cung cấp tour để Quý khách check in và trải nghiệm những gì đặc trưng nhất của các địa phương phía Nam Tổ quốc:
+ Tour Phan Rang - Trùng Sơn Cổ Tự - Cánh đồng muối - Vườn nho du lịch Thái An - Hang Rái - Vịnh Vĩnh Hy - Cung đường biển - Đồng cừu Suối Tiên - Điện gió.
+ Tour Phan Rang - Tháp Chàm Po Klong Garai - Trang trại nho Ba Mọi - Làng Gốm Bàu Trúc - Làng Dệt Mỹ Nghiệp - Bầu Sen - Đồng cừu Sơn Hải - Tanyoli - Mũi Dinh.
+ Tour Suối Tiên - Bàu Trắng - Mũi Né - Phan Thiết.
+ Tour Phan Rang - Đèo Ngoạn Mục - Đà Lạt - Hồ vô cực - Thác Datanla - Vườn hoa - Thiền viện Trúc Lâm - Chợ Đà Lạt - Đồi Mộng mơ - Đồi chè - Làng hoa Vạn Thành.
+ Tour Nha Trang: Hòn Chồng (Stacked rocks) - Tháp Po Nagar (Cham towers named Po Nagar) - Chợ Đầm (Dam market) - Nhà thờ Núi (Mountain church (or Stone church) - Bảo tàng ở Viện Hải dương học (Institute of Oceanography).
+ Tour Đắk Lắk: Chùa Sắc Tứ Khải Đoan - Biệt điện Bảo Đại - Khu du lịch sinh thái Kotam - Hồ Lăk - Khu du lịch sinh thái Trohbư Buôn Đôn - Thác Thủy Tiên.
+ Và Tour Theo YÊU CẦU Của Quý khách.
Chắc chắn Quý khách Sẽ HÀI LÒNG Và AN TÂM Khi Đến Với Chúng Tôi
GrapAir hân hạnh phục vụ Quý khách trên mọi cung đường!
GrapAir đưa, đón TẬN NƠI, phục vụ TẬN TÌNH, tài xế TẬN TÂM
THOẢI MÁI ĐI XA - KHÔNG LO VỀ GIÁ!
Liên hệ: +84 983 00 1155 (điện thoại, zalo, whatsapp, wechat)
E-mail: grapairtravel@gmail.com
Lai Châu,
du lịch Lai Châu,
sông Đà,
Tây Bắc,
Đèo Ô Quy Hồ,
Pusamcap,
Thác Tác Tình,
hang động Gia Khâu,
nàng Han,
Hạn Khuống,
lễ hội cốm mới,
Lễ hội Gầu tào,
người Hà Nhì,
thắng cố